Bệnh trầm cảm: Nguyên nhân, dấu hiệu nhận biết và điều trị

5/5 - (2 bình chọn)

Bệnh trầm cảm (Depression) là một dạng rối loạn cảm xúc thường gặp bên cạnh hội chứng hưng cảm. Theo ước tính, khoảng 5% dân số thế giới mắc phải bệnh lý này với tỷ lệ nhiều hơn ở nữ giới.

Trầm cảm là bệnh gì?

Trầm cảm (Depression) được biết đến với tên gọi khác là rối loạn trầm cảm. Thuật ngữ này đề cập đến một dạng rối loạn tâm trạng thường gặp, đặc trưng khí sắc trầm buồn, tâm trạng chán nản, mất hứng thú, giảm sự quan tâm với những sở thích và mọi thứ xung quanh.

Ban đầu, trầm cảm chỉ gây ra các bất thường về cảm xúc. Tuy nhiên theo thời gian, bệnh nhân sẽ phát triển đầy đủ 3 nhóm biểu hiện chính là cảm xúc, tư duy và hoạt động bị ức chế. Ngoài ra, bệnh nhân bị trầm cảm còn gặp phải một số rối loạn tâm thần và nhiều vấn đề sức khỏe thể chất khác.

bệnh trầm cảm
Trầm cảm là một dạng rối loạn cảm xúc thường gặp ở nữ giới (gấp 2 lần so với nam giới)

Từ năm 2012, trầm cảm đã được Tổ chức Y tế Thế giới WHO xếp vào nhóm các vấn đề sức khỏe đáng quan tâm. Không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của chính người bệnh, bệnh lý này còn gây ra gánh nặng đối với gia đình và xã hội. Theo thống kê của WHO, khoảng 5% dân số toàn cầu có những biểu hiện rối loạn trầm cảm rõ rệt. Dưới tác động của cuộc sống hiện đại, tỷ lệ người mắc bệnh lý này đang có xu hướng tăng lên.

Bên cạnh những ảnh hưởng về mặt tâm lý, trầm cảm còn làm gián đoạn quá trình học tập – làm việc, gây ra tình trạng tự cô lập và về lâu dài có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Nếu không được điều trị sớm, bệnh nhân trầm cảm có xu hướng lạm dụng rượu bia, chất kích thích và dần hình thành suy nghĩ, hành vi tự sát. Theo số liệu ước tính, khoảng 20% trường hợp trầm cảm tiến triển mãn tính và 31% các ca tự sát có liên quan đến những vấn đề tâm lý.

ads bùi thị hải yến chuyên gia tâm lý

Dấu hiệu nhận biết bệnh trầm cảm

Trầm cảm là bệnh lý có tiến triển chậm và thường hình thành từ từ trong nhiều tuần. Biểu hiện ban đầu của bệnh là hội chứng mệt mỏi (suy nhược cơ thể). Về lâu dài, trầm cảm phát triển với đầy đủ 3 nhóm triệu chứng chính là cảm xúc, tư duy và hành động bị ức chế. Ngoài ra, người bệnh cũng có thể gặp phải một số rối loạn khác.

Các dấu hiệu nhận biết bệnh trầm cảm thường gặp:

1. Cảm xúc bị ức chế

Cảm xúc bị ức chế (Depressed affect) là nhóm triệu chứng điển hình nhất của bệnh trầm cảm. Người mắc bệnh lý này thường có khí sắc trầm buồn được thể hiện bằng cảm xúc buồn rầu với nhiều mức độ khác nhau. Về lâu dài, bệnh nhân rơi vào trạng thái buồn chán sâu sắc, cảm thấy tù túng, thiếu hy vọng và kích thích hành động tự sát.

Nguyên nhân bệnh trầm cảm
Bệnh trầm cảm đặc trưng bởi khí sắc trầm buồn (chán nản, buồn bã, mất hy vọng,…)

Các biểu hiện của bệnh trầm cảm về mặt cảm xúc:

  • Chán nản
  • Thất vọng
  • Buồn bã
  • Buồn chán nặng nề, sâu sắc
  • Cảm thấy u uất, cuộc sống buồn tẻ không có hy vọng

Cảm giác buồn bã đeo bám bệnh nhân trong thời gian dài đằng đẵng. Vì không thể thoát khỏi cảm giác này, nhiều người lựa chọn tự sát để giải thoát. Đây cũng chính là ảnh hưởng nặng nề nhất của trầm cảm đối với bản thân người bệnh.

2. Tư duy bị ức chế

Tư duy bị ức chế (Depressed thinking) là nhóm triệu chứng xảy ra sau một thời gian bị ức chế về mặt cảm xúc. Về khía cạnh tư duy, bệnh nhân trầm cảm bắt đầu hình thành suy nghĩ về các sự việc không có thật hoặc tự nghiêm trọng hóa các sự việc đã xảy ra. Cảm xúc và tư duy bị ức chế chính là nguồn cơn kích thích hành vi tự sát ở bệnh nhân rối loạn trầm cảm.

Các biểu hiện tư duy bị ức chế thường gặp ở bệnh nhân trầm cảm:

  • Hồi ức khó khăn
  • Liên tưởng chậm chạp
  • Chìm đắm suy nghĩ về những vấn đề, sự việc đã xảy ra với tâm trạng xấu hổ, bi quan, bất hạnh, buồn bã
  • Về lâu dài, những suy nghĩ này kết tinh thành hoang tưởng (có cảm giác bị buộc tội hoặc tự buộc tội). Kết quả của hoang tưởng lâu ngày là hình thành suy nghĩ và kích thích các hành vi tự sát, làm tổn thương bản thân.
  • Khi bị ức chế về mặt tư duy, bệnh nhân thường có những biểu hiện dễ nhận biết như giọng nói nhỏ, thì thào, suy nghĩ chậm dẫn đến trả lời câu hỏi khó khăn,…

3. Hoạt động bị ức chế

Hoạt động bị ức chế (Depressed activity) là một trong 3 nhóm triệu chứng chính ở bệnh nhân bị trầm cảm. Nhóm triệu chứng này xuất hiện sau khi cảm xúc và tư duy bị ức chế một thời gian. Các hành động ở bệnh nhân trầm cảm luôn đi kèm với khí sắc trầm buồn, có đặc tính kéo dài và lặp đi lặp lại.

Nguyên nhân bệnh trầm cảm
Người mắc bệnh trầm cảm thường có xu hướng nằm im lìm trên giường trong nhiều giờ liền

Các dấu hiệu nhận biết bệnh trầm cảm về mặt hành động:

  • Đi khom lưng, cúi đầu
  • Ngồi hoặc nằm im lìm trong nhiều giờ liền
  • Nằm trên giường trong nhiều ngày thậm chí là nhiều tháng, cơ thể thiếu sức sống và uể oải
  • Dáng đi lờ đờ, thường đi quanh quẩn trong nhà
  • Có những hành vi đơn điệu lặp đi lặp lại

4. Các triệu chứng khác

Ngoài 3 nhóm triệu chứng chính, bệnh nhân rối loạn trầm cảm còn gặp phải các rối loạn tâm thần khác (Other mental disorders) và một số vấn đề sức khỏe thể chất.

Các rối loạn tâm thần khác có thể gặp ở bệnh nhân trầm cảm:

  • Xuất hiện ảo giác, hoang tưởng với nội dung là nghi bệnh (hội chứng mà bản thân người bệnh luôn cảm thấy mắc bệnh lý nghiêm trọng trong khi không hề có vấn đề về sức khỏe), những lời bị buộc tội hoặc tự buộc tội
  • Giảm khả năng chú ý và tập trung
  • Nghe những âm thanh không hề có thực (ảo thanh) với nội dung là tố cáo tội lỗi của bản thân hay thậm chí là tiếng than khóc trong đám ma và hình phạt trước những tội lỗi đã gây ra
  • Hoang tưởng và ảo thanh xuất hiện liên tục, kéo dài dẫn đến hành vi tự sát để giải phóng bản thân.

Ngoài những triệu chứng trên, người bị rối loạn trầm cảm còn có thể gặp phải một số vấn đề sức khỏe thể chất do cảm xúc, tư duy và hoạt động bị ức chế.

  • Rối loạn sinh dục (mất kinh, lãnh cảm, rối loạn kinh nguyệt, mất hứng thú, cường dương/ liệt dương,…)
  • Rối loạn tiết niệu (tiểu khó, rối loạn tiểu tiện,…)
  • Rối loạn tiêu hóa (lưỡi trắng, táo bón, tiêu chảy, ăn uống kém, chán ăn, giảm khả năng hấp thu,…)
  • Rối loạn tim mạch, thần kinh thực vật (đổ mồ hôi trộm, có cảm giác nghẹn thở, đánh trống ngực, mạch chậm, trương lực cơ giảm,…)
  • Toàn thân mệt mỏi, uể oải, không có sức lực

Bệnh trầm cảm gây ra nhiều triệu chứng lâm sàng mặc dù không phải bệnh nhân nào cũng có đầy đủ các triệu chứng kể trên. Tuy nhiên, tất cả người bệnh đều có khí sắc trầm buồn, giảm sự hứng thú, quan tâm với mọi việc xung quanh và luôn cảm thấy mệt mỏi, uể oải.

Nguyên nhân gây ra bệnh trầm cảm

Theo thống kê, trầm cảm gặp nhiều hơn ở phụ nữ với tỷ lệ gấp 2 lần so với nam giới và người trưởng thành có nguy cơ mắc bệnh cao trẻ nhỏ. Hiện nay, nguyên nhân chính xác gây ra bệnh lý này vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên qua nhiều nghiên cứu, trầm cảm được cho là có liên quan đến 4 nhóm nguyên nhân sau:

1. Do các bệnh thực thể ở não bộ

Đa phần mỗi người đều có thể vượt qua những áp lực và cú sốc tinh thần sau khoảng một thời gian nhất định. Tuy nhiên khi não bộ có vấn đề như u não, viêm não, chấn thương sọ não,… ngưỡng chịu đựng stress của cơ thể có thể giảm đi đáng kể. Điều này gây ra các rối loạn cảm xúc và đặc biệt là rối loạn trầm cảm.

Nguyên nhân bệnh trầm cảm
Các tổn thương thực thể ở não bộ có thể là nguyên nhân gây trầm cảm và các bệnh tâm thần khác

Các bệnh thực thể ở não bộ là nguyên nhân khá phổ biến gây ra trầm cảm và các dạng rối loạn cảm xúc khác. Tuy nhiên, nguyên nhân này tương đối dễ khắc phục. Khi các bệnh lý thực thể được kiểm soát, những bất thường về cảm xúc, tư duy và hoạt động sẽ được cải thiện đáng kể.

2. Sang chấn tâm lý

Sang chấn tâm lý là nguyên nhân phổ biến nhất gây rối loạn trầm cảm và nhiều bệnh tâm thần khác. Tổn thương có thể xảy ra do các yếu tố bên ngoài hoặc bên trong cơ thể. Trong đó, yếu tố thường gặp nhất là do mắc các bệnh nan y (ung thư, HIV,…).

Trong một số trường hợp, sang chấn tâm lý chỉ đóng vai trò là yếu tố góp thêm vào những nhân tố sẵn có (stress mãn tính, rối loạn tâm thần, bệnh nặng kéo dài,…). Lúc này, tác động tâm lý mạnh sẽ gây hình thành trầm cảm với những biểu hiện ban đầu là khí sắc trầm buồn, giảm sự quan tâm và hứng thú với mọi thứ xung quanh.

3. Do sử dụng chất gây nghiện

Sử dụng chất gây nghiện và các chất tác động tâm thần như thuốc lá, rượu, thuốc lắc (Amphetamin), Heroin,… cũng là nguyên nhân gây trầm cảm và nhiều bệnh lý tâm thần khác. Các chất này đều tác động trực tiếp đến hệ thần kinh trung ương với biểu hiện ban đầu là sảng khoái, hưng phấn và kích thích. Tuy nhiên về sau, cơ thể sẽ rơi vào trạng thái uể oải, mệt mỏi và buồn bã.

Nguyên nhân bệnh trầm cảm
Lạm dụng rượu bia, chất kích thích gia tăng rối loạn về mặt cảm xúc, tư duy và ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe thể chất

Cảm giác buồn bã không lối thoát kích thích bản thân người bệnh tiếp tục sử dụng chất gây nghiện để tạo sự hưng phấn và sảng khoái. Tình trạng kéo dài dẫn đến nghiện các chất kích thích và tăng mức độ buồn bã, uể oải. Ngoài trầm cảm, nghiện rượu bia và các chất tác động tâm thần còn gây rối loạn lo âu, stress, tâm thần phân liệt,…

4. Do sự rối loạn của các chất nội sinh

Cảm xúc, tư duy và hoạt động của não bộ bị chi phối bởi các chất dẫn truyền thần kinh như Noradrenalin, Serotonin, Acetylcholine, GABA, Dopamin,… Khi các chất dẫn truyền thần kinh bị rối loạn có thể gây ra trầm cảm và nhiều bệnh tâm thần khác.

Sau khi đã loại trừ những nguyên nhân trên, những trường hợp còn lại sẽ được xác định bị rối loạn trầm cảm do nguyên nhân nội sinh. So với các nguyên nhân khác, trầm cảm do sự rối loạn của các chất dẫn truyền thần kinh thường có mức độ nặng, bệnh nhân thường gặp phải tình trạng hoang tưởng, ảo thanh và có nguy cơ tự sát rất cao. Loại trầm cảm này gần như không thể điều trị dứt điểm và dễ tái phát sau khi ngưng thuốc.

Ngoài 4 nhóm nguyên nhân chính, bệnh trầm cảm cũng có thể xảy ra do các nguyên nhân, yếu tố khác như:

  • Di truyền
  • Rối loạn hormone
  • Quan hệ gia đình – xã hội
  • Yếu tố về tính cách

Trong hầu hết các trường hợp, trầm cảm ít khi khởi phát do một nguyên nhân mà chủ yếu là hệ quả từ nhiều yếu tố tác động. Đây cũng chính là lý do phải kết hợp nhiều phương pháp điều trị và cải thiện để có thể kiểm soát bệnh lý này một cách triệt để.

Ảnh hưởng của bệnh trầm cảm

Trước đây, sự hiểu biết về bệnh trầm cảm và các dạng rối loạn cảm xúc còn khá hạn chế. Tuy nhiên khoảng vài chục năm trở lại đây, số lượng người bị rối loạn trầm cảm tăng lên nên việc tiếp cận với những thông tin về bệnh lý này cũng tăng lên đáng kể. Chính vì vậy, ảnh hưởng của trầm cảm cũng được nghiên cứu sâu rộng hơn.

Hiện nay, có khoảng 5% dân số thế giới mắc phải bệnh trầm cảm với tỷ lệ chủ yếu là nữ giới. Ban đầu, bệnh lý này chỉ gây ảnh hưởng về mặt cảm xúc và tư duy. Nếu không được điều trị, cảm giác buồn chán và uể oải sẽ kéo dài dẫn đến trạng thái uể oải, mất đi sự quan tâm và hứng thú với mọi thứ xung quanh.

Những dấu hiệu của bệnh trầm cảm
Người bị trầm cảm rất khó để có thể duy trì hiệu suất công việc như trước

Nhiều người lầm tưởng trầm cảm chỉ ảnh hưởng về mặt tâm lý. Tuy nhiên trên thực tế, những người bị trầm cảm gần như không thể duy trì hiệu suất lao động, học tập như trước. Về lâu dài, trầm cảm khiến người bệnh mất hoàn toàn khả năng lao động và tách rời với xã hội, cộng đồng.

Những ảnh hưởng của bệnh trầm cảm:

  • Gián đoạn quá trình học tập
  • Giảm khả năng lao động
  • Giảm khả năng thích nghi dần và dần tách rời với gia đình, xã hội
  • Gia tăng nguy cơ mắc các bệnh lý thể chất, đặc biệt là tim mạch, tiêu hóa và nội tiết
  • Tăng nguy cơ tử vong gián tiếp ở những bệnh nhân cao tuổi có các bệnh lý nền
  • Tăng nguy cơ tự sát (thống kê cho thấy khoảng 31% trường hợp tự sát có liên quan đến các rối loạn tâm thần nói chung và trầm cảm nói riêng)
  • Trầm cảm làm gia tăng nguy cơ lạm dụng rượu bia, thuốc lá, chất kích thích
  • Giảm chất lượng cuộc sống của chính người bệnh, gia tăng gánh nặng lên gia đình và xã hội

Có thể thấy, rối loạn trầm cảm có mức độ vô cùng nghiêm trọng nếu không được điều trị và chăm sóc tốt. Hơn nữa, tỷ lệ người mắc bệnh lý này đang có xu hướng gia tăng và trẻ hóa. Hiện nay, WHO đã xếp trầm cảm vào nhóm các vấn đề sức khỏe lớn cần phải được quan tâm và nghiên cứu rộng rãi hơn nữa.

Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh trầm cảm

Ở nước ta, chẩn đoán bệnh trầm cảm đều dựa vào các nguyên tắc được mô tả trong ICD-10. Nguyên tắc này được áp dụng trong hầu hết các trường hợp bao gồm cả trầm cảm điển hình, không điển hình, trầm cảm mức độ nhẹ, trung bình và nặng. Ngoài các biểu hiện lâm sàng, chẩn đoán trầm cảm còn dựa vào các xét nghiệm cận lâm sàng.

– Biểu hiện lâm sàng

Trầm cảm chủ yếu được chẩn đoán qua biểu hiện lâm sàng. Thông qua các triệu chứng mà bệnh nhân gặp phải, bác sĩ cũng có thể xác định được mức độ của bệnh lý. Rối loạn trầm cảm được chẩn đoán thông qua 3 triệu chứng điển hình và 7 triệu chứng phổ biến.

3 triệu chứng điển hình của bệnh trầm cảm:

  • Khí sắc trầm buồn
  • Giảm năng lượng dẫn đến giảm hoạt động, cơ thể mệt mỏi và uể oải
  • Mất đi sự hứng thú và quan tâm – ngay cả với những sở thích và hoạt động yêu thích trước đây

7 triệu chứng phổ biến:

  • Giảm sút lòng tin/ hy vọng và tính tự trọng
  • Giảm sự chú ý và tập trung
  • Ăn uống không ngon miệng
  • Rối loạn giấc ngủ (mất ngủ, khó ngủ, ngủ chập chờn, hay gặp ác mộng,…)
  • Có suy nghĩ bản thân không xứng đáng hoặc bị buộc tội về những sự việc đã xảy ra hoặc chưa từng xảy ra
  • Có cái nhìn bi quan và ảm đạm về tương lai
  • Có ý nghĩ, hành vi hủy hoại bản thân hoặc tự sát

Thông qua các biểu hiện lâm sàng, bác sĩ có thể xác định được mức độ trầm cảm của từng bệnh nhân:

  • Trầm cảm nhẹ: Trầm cảm nhẹ được xác định khi có ít nhất 2 triệu chứng đặc trưng và 2 triệu chứng phổ biến. Các triệu chứng đều có mức độ nhẹ đến trung bình, không có bất cứ triệu chứng nào ở mức độ nặng và các triệu chứng này phải kéo dài tối thiểu trong 14 ngày. Bệnh nhân bị trầm cảm nhẹ gặp khó khăn nhưng vẫn có thể tiếp tục các hoạt động xã hội và công việc hằng ngày.
  • Trầm cảm vừa: Trầm cảm vừa được chẩn đoán khi có ít nhất 2 triệu chứng đặc trưng và 3 triệu chứng phổ biến. Các triệu chứng có biểu hiện rõ rệt với thời gian kéo dài ít nhất 14 ngày. Bệnh nhân bị trầm cảm vừa gặp khó khăn để tiếp tục công việc, hoạt động xã hội và các công việc trong gia đình. Bệnh nhân có hoặc không có các vấn đề sức khỏe thể chất.
  • Trầm cảm nặng: Trầm cảm nặng được xác định khi có đầy đủ 3 triệu chứng điển hình và ít nhất 4 triệu chứng phổ biến. Tương tự như các mức độ trầm cảm khác, các triệu chứng này phải kéo dài ít nhất 2 tuần. Ở mức độ nặng, bệnh nhân gần như ít có khả năng tiếp tục công việc gia đình, nghề nghiệp, công việc xã hội,… Một số trường hợp trầm cảm nặng có thể đi kèm với triệu chứng loạn thần (ảo giác, hoang tưởng).

– Chẩn đoán phân biệt:

Trầm cảm có thể bị nhầm lẫn với các bệnh rối loạn tâm thần khác. Do đó, cần phải chẩn đoán phân biệt trước khi tiến hành điều trị. Chẩn đoán phân biệt còn được thực hiện để xác định các nguyên nhân thực thể, qua đó giúp điều trị trầm cảm đúng cách và mang lại hiệu quả cao.

  • Nguyên nhân thực thể: Do ảnh hưởng của thuốc, nhiễm trùng, rối loạn nội tiết, ung bướu, rối loạn ở hệ thần kinh trung ương và các bệnh hệ thống.
  • Các bệnh tâm thần: Rối loạn lo âu, nghiện rượu, rối loạn nhân cách, rối loạn lưỡng cực, tâm thần phân liệt, sa sút trí tuệ, phản ứng tâm lý đối với các bệnh thực thể và tâm lý buồn bã do mất người thân.

– Xét nghiệm cận lâm sàng:

Bên cạnh chẩn đoán lâm sàng, bệnh nhân cần thực hiện thêm các xét nghiệm cận lâm sàng để phục vụ cho quá trình chẩn đoán bệnh trầm cảm. Các xét nghiệm có thể được thực hiện bao gồm:

Những dấu hiệu của bệnh trầm cảm
Xét nghiệm cận lâm sàng được thực hiện để xác định nguyên nhân và các yếu tố gia tăng nguy cơ bị trầm cảm
  • Xét nghiệm cơ bản (xét nghiệm chức năng thận, gan, công thức máu, xét nghiệm sinh hóa,…)
  • Trắc nghiệm tâm lý
  • MRI, CT sọ não
  • Điện tim, điện não đồ
  • Xét nghiệm các chuyên khoa khác tùy theo tình trạng của từng bệnh nhân

Nguyên tắc điều trị bệnh trầm cảm

Trầm cảm là một dạng rối loạn cảm xúc thường gặp. Bệnh gây ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống và sức khỏe. Nếu để kéo dài, rối loạn trầm cảm còn tăng gánh nặng lên gia đình và xã hội.

Phác đồ điều trị trầm cảm được cá thể hóa tùy theo mức độ trầm cảm, độ tuổi và tình trạng sức khỏe của từng bệnh nhân. Điều trị bệnh lý này dựa trên các nguyên tắc sau:

  • Hướng dẫn bệnh nhân cách nhận biết dấu hiệu hưng cảm khi sử dụng thuốc. Khi nhận thấy các dấu hiệu này, cần phải giảm liều hoặc ngưng thuốc để tránh những hành vi quá khích.
  • Trường hợp trầm cảm nặng có ý nghĩ và hành vi tự sát nhưng bất thành cần dùng thuốc chống loạn thần. Hoặc có thể sử dụng thuốc chống trầm cảm + liệu pháp sốc điện (ECT)
  • Hầu hết các loại thuốc điều trị trầm cảm đều không hiệu quả ngay mà chỉ phát huy tác dụng sau 2 – 3 tuần và cần dùng trong thời gian dài mới có thể đạt được tác dụng đầy đủ.
  • Tùy theo tình trạng của từng bệnh nhân, có thể phối hợp thuốc chống trầm cảm với thuốc điều hòa khí sắc và thuốc chống loạn thần.
  • Bệnh nhân phải được tư vấn đầy đủ về các tác dụng phụ có thể gặp phải khi sử dụng thuốc
  • Với những bệnh nhân gặp phải vấn đề sức khỏe, cần phục hồi giấc ngủ và khả năng ăn uống đầu tiên. Sau đó mới cải thiện các triệu chứng thực thể khác.
  • Những trường hợp không có đáp ứng khi dùng 1 loại thuốc cần phải phối hợp nhiều loại thuốc chống trầm cảm
  • Thuốc chống trầm cảm phải được sử dụng ít nhất trong 6 tháng. Sau đó, giảm liều và duy trì dùng trong một thời gian nhất định để phòng ngừa tình trạng tái phát.

Các phương pháp điều trị bệnh trầm cảm

Điều trị trầm cảm bao gồm nhiều phương pháp khác nhau, trong đó sử dụng thuốc và tâm lý trị liệu là hai phương pháp phổ biến nhất. Người bệnh cũng cần phối hợp với lối sống khoa học và một số liệu pháp hỗ trợ để tăng hiệu quả điều trị.

1. Sử dụng thuốc

Sử dụng thuốc là phương pháp chính trong điều trị bệnh trầm cảm. Mục tiêu của việc dùng thuốc là cải thiện tâm trạng và nâng cao chất lượng giấc ngủ.

Các loại thuốc chống trầm cảm thường được sử dụng trong thời gian dài. Bên cạnh những lợi ích mang lại, dùng thuốc cũng gây ra không ít rủi ro và tác dụng phụ. Vì vậy, bệnh nhân phải được tư vấn kỹ trước khi dùng thuốc để hạn chế tối đa các tình huống ngoài ý muốn.

Những dấu hiệu của bệnh trầm cảm
Sử dụng thuốc có thể cải thiện những bất thường về mặt cảm xúc, tư duy của người bị trầm cảm

Các loại thuốc được sử dụng trong điều trị bệnh trầm cảm:

  • Thuốc chống trầm cảm (bao gồm thuốc chống trầm cảm 3 vòng, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin, thuốc ức chế monoamine oxydase, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin và norepinephrine, thuốc chống trầm cảm không điển hình)
  • Thuốc điều hòa khí sắc
  • Thuốc chống loạn thần
  • Thuốc bồi bổ thần kinh và tăng cường tuần hoàn não

Các loại thuốc được sử dụng để điều trị trầm cảm có hiệu quả chậm (sau khoảng 2 – 3 tuần sử dụng). Thuốc cần phải được dùng dài hạn để điều hòa cảm xúc và ổn định các chất dẫn truyền thần kinh. Khi các triệu chứng được cải thiện, cần dùng thuốc thêm một thời gian để phòng ngừa tái phát.

2. Liệu pháp sốc điện (ECT)

Liệu pháp sốc điện (ECT) được áp dụng trong trường hợp trầm cảm nặng kết hợp với loạn thần hoặc các trường hợp trầm cảm kháng thuốc. ECT sử dụng luồng điện được kiểm soát nhằm tạo các cơn co giật nhỏ bên trong não bộ. Mục đích của các cơn co giật là kích thích sự liên kết của các nơ rơn, qua đó ổn định hoạt động sản xuất các chất dẫn truyền thần kinh.

Liệu pháp sốc điện có thể cải thiện tâm trạng và loại bỏ ý nghĩ, hành vi tự sát ở bệnh nhân bị trầm cảm nặng. Tuy nhiên, liệu pháp này có thể gây mất trí nhớ ngắn hạn và tiềm ẩn nhiều tác dụng ngoại ý. Chính vì vậy, ECT chỉ được thực hiện trong một số trường hợp cần thiết.

3. Trị liệu tâm lý

Trị liệu tâm lý là phương pháp điều chỉnh các rối loạn về cảm xúc, nhân cách, hành vi và tư duy thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ giữa chuyên gia – người bệnh. Hiện nay, phương pháp này được áp dụng trong điều trị nhiều bệnh tâm thần khác nhau như rối loạn lo âu, tâm thần phân liệt, rối loạn ám ảnh cưỡng chế và đặc biệt là trầm cảm.

Những dấu hiệu của bệnh trầm cảm
Trị liệu tâm lý là phương pháp mang lại hiệu quả tốt trong điều trị các bệnh tâm lý nói chung và rối loạn trầm cảm nói riêng

Với bệnh trầm cảm, trị liệu tâm lý sử dụng các liệu pháp sau:

  • Liệu pháp gia đình
  • Liệu pháp hành vi
  • Liệu pháp nhận thức

Sau khi trị liệu, bệnh nhân sẽ được tháo gỡ những vướng mắc về mặt tâm lý và nhận định đúng giá trị của bản thân. Trong những năm gần đây, trị liệu tâm lý có những bước cải tiến đáng kể, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người mắc các bệnh tâm lý nói chung và trầm cảm nói riêng.

4. Các phương pháp khác

Ngoài 3 phương pháp trên, bệnh nhân bị trầm cảm có thể áp dụng một số phương pháp điều trị khác như:

  • Điều trị các bệnh thực thể ở não bộ
  • Cai nghiện đối với những trường hợp nghiện chất kích thích
  • Áp dụng một số liệu pháp hỗ trợ (yoga, tập thể dục, đọc sách, âm nhạc trị liệu, liệu pháp mùi hương,…)
  • Xây dựng lối sống khoa học, lành mạnh

Ngoài những phương pháp điều trị chính, bệnh nhân trầm cảm cần nhận được sự quan tâm và chia sẻ từ những người xung quanh. Sự đồng cảm, sẻ chia chính là yếu tố giúp bệnh nhân có thể điều chỉnh lại cảm xúc và nhanh chóng hòa hợp trở lại với gia đình, xã hội.

Lưu ý: Nếu nhận thấy bệnh nhân bỏ ăn, có các hành vi kích động và tự sát, cần đưa ngay đến bệnh viện để tránh những tình huống xấu. Trong suốt quá trình điều trị trầm cảm, cần theo sát và chú ý đến bệnh nhân. Bởi có không ít trường hợp người bệnh giả vờ đã khỏi bệnh để dễ dàng thực hiện các hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát.

ads cao kim thắm chuyên gia tâm lý trị liệu

Bệnh trầm cảm là một dạng rối loạn cảm xúc thường gặp. Bên cạnh những ảnh hưởng đối với cá nhân người bệnh, bệnh lý này còn làm tăng gánh nặng lên gia đình và xã hội. Chính vì vậy, bản thân người bệnh cần có sự chủ động trong việc thăm khám và điều trị. Những người xung quanh cũng cần có sự quan tâm, chia sẻ để hỗ trợ bệnh nhân điều trị bệnh dứt điểm, tránh những ảnh hưởng và biến chứng nặng nề.  

ArrayArray
5/5 - (2 bình chọn)
Array

Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *