Rối loạn lo âu lan tỏa có nguy hiểm không? Chữa được không?
Rối loạn lo âu lan tỏa (GAD) không chỉ ảnh hưởng đến tinh thần mà còn gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm liên quan đến sức khỏe thể chất. Tuy nhiên, nguy cơ gặp phải các biến chứng có thể giảm đi đáng kể nếu được thăm khám và điều trị sớm.
Rối loạn lo âu lan tỏa có nguy hiểm không?
Rối loạn lo âu lan tỏa (GAD) là dạng thường gặp nhất của rối loạn lo âu. GAD đặc trưng bởi sự lo lắng quá mức, thường trực và kéo dài về những vấn đề trong cuộc sống. Sự lo lắng này thường không tương xứng với mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
Khác với lo âu thông thường, nỗi lo lắng ở bệnh nhân GAD có tính chất mơ hồ, không xác định được nguồn cơn cụ thể và bản thân người bệnh cũng không thể kiểm soát cảm xúc lo lắng, căng thẳng quá mức.
Hầu hết, tình trạng lo âu đều có thể thuyên giảm sau một thời gian ngắn khi vấn đề được cải thiện. Tuy nhiên ở người bị rối loạn lo âu lan tỏa, sự lo lắng thường kéo dài ít nhất 6 tháng và có xu hướng nặng dần theo thời gian nếu không được điều trị.
Trên thực tế, sự hiểu biết về rối loạn lo âu nói chung và rối loạn lo âu lan tỏa nói riêng còn khá hạn chế. Chính vì vậy, không ít người băn khoăn về vấn đề “Rối loạn lo âu có nguy hiểm không?”.
Thực tế, các bệnh tâm thần nói chung và rối loạn lo âu lan tỏa nói riêng không đe dọa đến sức khỏe một cách đột ngột như các vấn đề thể chất. Tuy nhiên nếu không có biện pháp điều trị, cả sức khỏe tinh thần và thể chất của người bệnh đều bị ảnh hưởng nặng nề.
Dưới đây là một số ảnh hưởng, biến chứng nguy hiểm do rối loạn lo âu lan tỏa gây ra:
1. Giảm hiệu suất lao động, học tập
Người mắc hội chứng rối loạn lo âu lan tỏa luôn thường trực nỗi lo mơ hồ và quá mức về những vấn đề trong cuộc sống. Sự lo lắng này gần như không thể kiểm soát và có xu hướng kéo dài trong nhiều tuần, nhiều tháng. Người bệnh thường dành nhiều thời gian để tìm ra các giải pháp cho những trường hợp xấu nhất để trấn an bản thân và giảm đi cảm giác lo âu.
Sự lo âu xâm chiếm lấy suy nghĩ của người bệnh ảnh hưởng nhiều đến hiệu suất lao động và học tập. Thực tế cho thấy, hầu hết những người bị GAD gần như không thể duy trì hiệu quả làm việc và học tập như trước đây. Đồng thời thường xuyên gặp các sai sót trong công việc do giảm khả năng tập trung và tính nhanh nhạy.
Với những trường hợp nặng, người bệnh gần như mất hoàn toàn khả năng học tập và lao động. Thay vào đó là cảm giác lo âu bao trùm toàn bộ tâm trí khiến cơ thể mệt mỏi, suy nghĩ bi quan và u uất. Những trường hợp này thường đi kèm với các rối loạn tâm thần khác và gặp nhiều khó khăn hơn trong việc điều trị.
2. Ảnh hưởng các mối quan hệ gia đình, xã hội
Ngoài ảnh hưởng đến quá trình học tập và làm việc, rối loạn lo âu lan tỏa còn ảnh hưởng đến các mối quan hệ gia đình và xã hội. Sự lo lắng quá mức và kéo dài có thể khiến bệnh nhân dễ cáu gắt, thay đổi tâm tính và bực bội với những việc nhỏ nhặt.
Điều này làm gia tăng xung đột với bạn bè, người thân và đồng nghiệp. Dần dần, người bệnh không còn nhu cầu chia sẻ và tự cô lập bản thân. Về lâu dài, hình thành cảm giác sợ hãi và chần chừ trong mọi vấn đề trong cuộc sống. Nếu không nhận được sự động viên và chia sẻ từ những người xung quanh, mức độ lo âu và các cảm xúc tiêu cực sẽ tăng lên đáng kể theo thời gian.
3. Tăng nguy cơ lạm dụng rượu bia, chất kích thích
Lạm dụng rượu bia, chất kích thích và rối loạn lo âu lan tỏa có tác động qua lại lẫn nhau. Bệnh nhân GAD có xu hướng tìm đến rượu bia, thuốc lá và chất gây nghiện để giải phóng tâm trạng lo âu và căng thẳng quá mức. Các chất gây nghiện có trong thuốc phiện, thuốc lá và rượu gây ức chế hệ thần kinh trung ương và mang đến cảm giác sảng khoái, hưng phần ngay lập tức.
Tuy nhiên về lâu dài, hoạt động sản xuất các chất dẫn truyền thần kinh của não bộ có thể bị rối loạn. Từ đó gia tăng mức độ lo âu và căng thẳng ở bệnh nhân bị rối loạn lo âu lan tỏa. Việc sử dụng rượu bia, chất kích thích còn khiến đời sống của bệnh nhân trở nên thiếu lành mạnh, mất định hướng và hoàn toàn không thể học tập, lao động như bình thường.
Rối loạn lo âu lan tỏa kết hợp với nghiện rượu bia và các chất kích thích có thể gia tăng sự lo âu và các cảm xúc tiêu cực. Tình trạng này kéo dài sẽ gây ra nhiều vấn đề sức khỏe thể chất và tâm thần.
4. Trầm cảm thứ phát
Trầm cảm thứ phát là biến chứng có thể gặp phải nếu rối loạn lo âu lan tỏa không được thăm khám và điều trị sớm. Trầm cảm là một dạng rối loạn cảm xúc đặc trưng bởi khí sắc trầm buồn, người bệnh luôn có cảm giác bi quan, lo lắng, tự đánh giá thấp bản thân và luôn có cảm giác tội lỗi.
Stress kéo dài và lo âu quá mức chính là yếu tố gia tăng nguy cơ bị rối loạn trầm cảm. Những trường hợp rối loạn lo âu lan tỏa kết hợp với trầm cảm thường có triệu chứng nặng, cuộc sống và sức khỏe bị ảnh hưởng nặng nề.
5. Tăng nguy cơ mắc các bệnh mãn tính
Không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần, rối loạn lo âu lan tỏa còn tăng nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như đau nửa đầu, hội chứng ruột kích thích, đau dạ dày, đau nhức xương khớp, các vấn đề tim mạch và rối loạn giấc ngủ. Nguyên nhân là khi lo âu quá mức, hệ thần kinh trung ương và thực vật sẽ bị rối loạn. Qua đó dẫn đến các triệu chứng như đổ mồ hôi, tim đập nhanh, nghẹn thở,…
Hơn nữa, lo âu và căng thẳng kéo dài sẽ kích thích tuyến thượng thận tăng sản xuất hormone cortisol. Ngoài những lợi ích mang lại, lượng hormone này tăng lên còn đi kèm với những rủi ro như tăng đường huyết, tăng mức độ viêm của các cơ quan trong cơ thể, giảm chức năng miễn dịch,… Với những người có sẵn các bệnh mãn tính, rối loạn lo âu lan tỏa có thể kích thích triệu chứng bùng phát, đồng thời làm nghiêm trọng triệu chứng và đẩy nhanh tiến triển của bệnh.
Đặc biệt, trầm cảm và rối loạn lo âu đã được nghiên cứu nhiều về mối liên hệ với các vấn đề sức khỏe như béo phì, cao huyết áp, tăng cholesterol trong máu,… Ở những người có sẵn các bệnh lý tim mạch, rối loạn lo âu lan tỏa có thể gia tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và nhiều biến chứng khác.
6. Tự sát hoặc có hành vi tự hủy hoại
Biến chứng nặng nề nhất của rối loạn lo âu lan tỏa là bệnh nhân có những hành vi tự hủy hoại và tự sát để giải phóng bản thân khỏi sự lo lắng thường trực và kéo dài. Những trường hợp có hành vi tự sát thường đi kèm với trầm cảm nặng và một số rối loạn tâm thần khác.
Rối loạn lo âu lan tỏa có chữa được không?
Rối loạn lo âu lan tỏa có chữa được không cũng là vấn đề được quan tâm bên cạnh những biến chứng và ảnh hưởng của bệnh lý này. Trên thực tế, triệu chứng của GAD không quá đặc trưng như các dạng rối loạn lo âu khác như ám ảnh sợ, rối loạn hoảng loạn và rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Tuy nhiên, sự lo lắng quá mức ở bệnh nhân GAD có xu hướng kéo dài, thường trực và hầu hết đều tiến triển mãn tính, dễ tái phát.
Nếu được điều trị sớm và đúng cách, rối loạn lo âu lan tỏa hoàn toàn có thể chữa khỏi. Khả năng chữa khỏi bệnh lý này phụ thuộc vào thời gian khởi phát, mức độ lo âu, sức khỏe, môi trường, nhân cách và một số yếu tố khác. Chính vì vậy ở một số trường hợp, bệnh có thể tái phát thường xuyên ngay cả khi đã được điều trị tích cực.
Hiện tại, điều trị rối loạn lo âu lan tỏa còn gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, bản thân người bệnh cần kết hợp các biện pháp y tế và hỗ trợ để kiểm soát sự lo âu và các cảm xúc tiêu cực, từ đó ổn định cảm xúc và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Các biện pháp được áp dụng trong điều trị rối loạn lo âu lan tỏa (GAD):
- Điều trị bằng thuốc: Sử dụng thuốc có thể giảm đi sự lo lắng quá mức ở bệnh nhân bị rối loạn lo âu lan tỏa. Tùy theo từng trường hợp, bác sĩ có thể chỉ định dùng thuốc chống trầm cảm, thuốc chống lo âu, thuốc kháng histamine H1, thuốc chẹn beta và các loại vitamin, khoáng chất giúp nuôi dưỡng tế bào thần kinh.
- Trị liệu tâm lý: Trị liệu tâm lý là phương pháp điều chỉnh những rối loạn về mặt tâm lý thông qua hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Với rối loạn lo âu lan tỏa, liệu pháp nhận thức hành vi là kỹ thuật mang lại cải thiện rõ rệt nhất. Mục tiêu của trị liệu tâm lý là giảm sự lo lắng quá mức cần thiết, đồng thời giúp bệnh nhân biết cách cân bằng cảm xúc và ứng phó với những tình huống căng thẳng trong tương lai.
- Các biện pháp hỗ trợ: Ngoài sử dụng thuốc và trị liệu tâm lý, bệnh nhân bị rối loạn lo âu lan tỏa cũng có thể áp dụng thêm một số biện pháp hỗ trợ như thiền định, tập yoga, ăn uống hợp lý, ngủ đủ giấc và thực hiện một số hoạt động thư giãn. Các biện pháp này có thể giảm bớt sự lo lắng thái quá, mang đến tâm trạng thoải mái và dễ chịu hơn.
Nếu tích cực điều trị, rối loạn lo âu lan tỏa có thể chữa khỏi hoàn toàn hoặc được kiểm soát phần nào. Trong đó, những trường hợp điều trị sớm sẽ có cải thiện rõ rệt hơn so với trường hợp rối loạn lo âu nặng và đi kèm với các rối loạn tâm thần khác.
Trên đây là những thông tin giải đáp “Rối loạn lo âu lan tỏa có nguy hiểm không? Chữa được không?”. Hy vọng qua bài viết, người bệnh có thể hình dung được mức độ nghiêm trọng của bệnh lý và chủ động tìm gặp bác sĩ trong thời gian sớm nhất.
Tham khảo thêm:
- Phác đồ điều trị rối loạn lo âu lan tỏa
- 9 Cách vượt qua rối loạn lo âu đơn giản tại nhà bạn nên áp dụng
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!